Thế kỷ 18 Giao_hưởng

Joseph Haydn, người được mệnh danh là "cha đẻ của Giao hưởng"[6]

Trong thế kỷ 18, "giao hưởng phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc".[7] Thể loại này đóng một vai trò quan trọng tại nhiều khía cạnh trong đời sống công cộng, bao gồm cả trong các nhà thờ,[7]nhưng nguồn hỗ trợ đặc biệt mạnh mẽ cho các buổi biểu diễn giao hưởng lại là tầng lớp quý tộc. Ở Viên, có lẽ là địa điểm quan trọng nhất ở châu Âu trong sự phát triển của các bản giao hưởng, "không nói quá khi ở đây có hàng trăm gia đình quý tộc ủng hộ cho các cơ sở âm nhạc, họ thường chia thời gian qua lại giữa Viên và cơ ngơi của mình [những nơi khác trong Đế chế]"[8]Vì kích thước bình thường của dàn nhạc vào thời điểm đó là tương đối nhỏ, rất nhiều các cơ sở âm nhạc giống như trên có thể trình diễn được các bản giao hưởng. Khi còn trẻ, Joseph Haydn đảm nhận công việc đầu tiên là làm chỉ đạo âm nhạc cho gia đình Morzin vào năm 1757. Khi cùng gia đình Morzin đến Viên, ông nhận ra rằng: dàn nhạc riêng của ông chỉ là một phần nhỏ trong một sân khấu âm nhạc sôi động và cạnh tranh, với nhiều nhà quý tộc tài trợ cho nhiều buổi hòa nhạc với các dàn nhạc riêng của họ.[9]

Các tác giả LaRue, Bonds, Walsh và Wilson đã lần theo dòng phát triển của dàn nhạc giao hưởng vào thế kỷ 18.[10] Ban đầu, các bản giao hưởng là chỉ được viết cho bộ dây, tức là chỉ được viết cho bốn phần: violin thứ nhất, violin thứ hai, viola và phần đệm (phần đệm có thể được chơi bởi cello hoặc contrabass, và có thể có cả bassoon; phần đệm được chơi thấp hơn quãng tám so với phần chính). Đôi khi, các nhà soạn nhạc ban đầu thậm chí còn bỏ qua phần của viola, thành ra bản giao hưởng chỉ có ba phần. Đôi khi, giao hưởng cũng có cả phần basso continuo-được chơi bởi bassoon, harpsichord hoặc một nhạc cụ chơi hợp âm khác.[10]

Bổ sung đầu tiên cho dàn nhạc đơn giản này là một cặp kèn cor, đôi khi là một cặp kèn oboe, và rồi là cả kèn cor và kèn oboe với nhau. Trong suốt thế kỷ này, những nhạc cụ khác cũng dần được thêm vào dàn nhạc: sáo (đôi khi dùng để thay thế kèn oboe), và thêm cả các phần riêng cho bassoon, clarinet, và kèn trumpettrống định âm (timpani). Vì mỗi tác phẩm có một tính chất khác nhau nên các nhạc cụ bổ sung sẽ được thêm vào tùy lúc để phù hợp với bản nhạc. Cuối thế kỷ này, dàn nhạc với quy mô đầy đủ nhất, được sử dụng cho các bản giao hưởng quy mô lớn, gồm có bộ dây như đề cập ở trên, từng đôi nhạc cụ của bộ gỗ (sáo, oboe, clarinet, bassoon), một cặp kèn cor và trống định âm. Nhạc cụ với phím để chơi phần continuo (như harpsichord hoặc piano) cũng có thể xuất hiện.

Phong cách "giao hưởng Ý", thường được sử dụng trong khúc dạo đầu và khúc nhạc giữa giờ nghỉ (entr'acte) trong các nhà hát opera, với ba chương: nhanh-chậm-nhanh đã trở thành tiêu chuẩn cho các tác phẩm thể loại này. Đến thế kỷ 18, các bản giao hưởng bốn chương lại dần phổ biến,[11] còn giao hưởng với ba chương dần tàn đi. Khoảng một nửa trong số ba mươi bản giao hưởng đầu tiên của Haydn có ba chương;[12] và vào lúc Mozart còn trẻ, giao hưởng ba chương vẫn là chuẩn mực cho ông, có lẽ dưới ảnh hưởng của người bạn Johann Christian Bach.[13] Một ví dụ nổi bật cuối cùng của bản giao hưởng Cổ điển với ba chương là giao hưởng "Prague" của Mozart, viết vào năm 1787.

Giao hưởng với bốn chương nổi lên trong thời kỳ này có cấu trúc điển hình như sau:[14][15]

  • Chương I với hình thức sonata mở đầu hoặc allegro
  • Chương II với tiết tấu chậm, chẳng hạn như adagio
  • Chương III viết dưới dạng minuet hoặc scherzo với tam tấu
  • Chương IV với hình thức rondo hoặc sonata, với tiết tấu allegro

Những biến thể trên cấu trúc này, chẳng hạn như thay đổi thứ tự của các chương nằm giữa hoặc thêm phần giới thiệu tiết tấu chậm cho chương đầu tiên, là phổ biến. Haydn, Mozart và những đương thời hạn chế sử dụng hình thức bốn chương cho nhạc giao hưởng hoặc nhạc thính phòng như tứ tấu. Những bản sonata độc tấu của Beethoven được viết ở dạng bốn chương cũng nhiều như ở dạng ba chương.[16]

Những bản giao hưởng đầu tiên ra đời quanh các thành phố như Milan, Vienna và Mannheim. Trường phái ở Milan có trung tâm là Giovanni Battista Sammartini và có thể kể đến các đại diện như Antonio Brioschi, Ferdinando GalimbertiGiovanni Battista Lampugnani. Những nhà soạn nhạc đi đầu trong diễn giải giao hưởng tại Vienna có thể kể đến như Georg Christoph Wagenseil, Wenzel Raimund BirckGeorg Matthias Monn; các nhà soạn nhạc giao hưởng Vienna quan trọng sau đó thì có Johann Baptist Wanhal, Carl Ditters von Dittersdorf và Leopold Hofmann. Trường phải Mannheim có điển hình là Johann Stamitz.[17]

Những nhà soạn nhạc giao hưởng quan trọng nhất của nửa sau của thế kỷ 18 phải kể đến Haydn, với ít nhất 107 bản giao hưởng được viết trong khoảng 36 năm,[18] và Mozart, với ít nhất 47 bản giao hưởng trong 24 năm.[19]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Giao_hưởng http://www.britannica.com/EBchecked/topic/362596/M... http://www.kylegann.com/Symphony.html http://www.oed.com/view/Entry/196292?redirectedFro... http://www.oldandsold.com/articles22/music-bible-7... http://www.oxfordmusiconline.com/subscriber/articl... http://ttle.perso.neuf.fr/Symphonies/symphonistes_... http://ttle.perso.neuf.fr/Symphonies/symphonistes_... http://ttle.perso.neuf.fr/Symphonies/symphonistes_... http://ttle.perso.neuf.fr/Symphonies/symphonistes_... http://library.thinkquest.org/22673/index.html